Tượng Trương Vĩnh Ký ở một góc công viên Thống Nhất nhìn ra nhà thờ Đức Bà năm 1969 (hiện được đặt ở Bảo Tàng Mỹ Thuật TP.HCM) - Ảnh tư liệu
Từ những năm 50-60 của thế kỷ XIX, Trương Vĩnh Ký đã thông thạo nhiều ngôn ngữ của Đông Nam Á cũng như các ngôn ngữ khác trên thế giới, như các thứ tiếng: Campuchia, Thái Lan, Lào, Malaysia, Myanmar, Chăm, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hi Lạp, Latin, Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Anh, Pháp, Ý, … để giao lưu và hội nhập dễ dàng với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Tất cả thành công đều nhờ tự học
Trương Vĩnh Ký sinh ngày 6-12-1837 tại Cái Mơn, xã Vĩnh Thạnh và qua đời vào ngày 1-9-1898 ở Chợ Quán, Sài Gòn. Ngay từ lúc lọt lòng mẹ đến lúc từ giã cõi đời này, ông đã trải qua rất nhiều sóng gió.
Cha của Trương Vĩnh Ký là cụ Trương Chánh Thi, nguyên quán tại Bình Định. Cụ Chánh Thi vào Nam lập nghiệp trên một khu vực đất Vĩnh Long (nay khu vực này đã thuộc tỉnh Bến Tre).
Cha của Trương Vĩnh Ký vốn là một nhà Nho học, thích thi phú, được bổ nhiệm làm lãnh binh dưới triều Minh Mạng của nhà Nguyễn. Cụ mất rất sớm từ lúc Trương Vĩnh Ký mới lên 3 tuổi.
Mẹ Trương Vĩnh Ký là cụ bà Nguyễn Thị Châu - một người mẹ tảo tần và lam lũ. Bà sinh được một con gái và hai con trai.
Khi chỉ mới lên 3 tuổi, Vĩnh Ký đã thuộc làu làu Tam tự kinh. 4 tuổi, ông đã tập viết. Lên 5 tuổi (là năm 1842) ông cắp sách đến trường học chữ Nho, chữ Nôm với thầy giáo Học.
Sau vài ba năm học tập, Trương Vĩnh Ký đã thông thạo Minh Tâm Bửu Giám, đọc Tứ thư, Ngũ kinh, thuộc nhiều thơ Đường, thơ Tống...
Không những thế, theo lời từ những người thân hậu bối, thuở nhỏ ông còn thuộc nhớ nhiều bài ca dao dài mà ngay cả người lớn nhiều khi cũng không biết. Ở thời điểm đó, cậu bé Ký đọc nhiều sách do cha mang từ miền Trung vào như Nhất Thiên Tự, Tam Thiên Tự, Ngũ Thiên Tự, Minh Đạo Gia Huấn, thơ Đường, thơ Tống...
Ngoài ra, lúc đó Trương Vĩnh Ký còn học tiếng La tinh với các bạn người Lào, Thái, Miến, Nhật, Trung...
Chân dung Trương Vĩnh Ký - Ảnh tư liệu
Sau khi cụ ông Trương Chánh Thi qua đời, một nhà truyền giáo thường được mọi người gọi là Cố Tám đã hướng dẫn cho cậu bé Trương Vĩnh Ký học chữ Latin, chữ Nôm và ít chữ sau này gọi là chữ “Quốc ngữ“.
Trong quá trình dạy dỗ, cụ Cố Tám nhận thấy cậu Ký dù tuổi còn nhỏ mà đã có đầu óc thông minh hơn người. Cậu ấy chỉ biết thích vui thú với đọc sách mà chẳng ham đi chơi đùa, có chí cầu tiến. Sau đó một người Pháp tên Borelle (tên Việt Nam là Thừa Hòa) ở Cái Nhum (Vĩnh Long) đã ngỏ ý xin nhận nuôi dạy Trương Vĩnh Ký về tiếng Latin và tiếng Pháp năm 1846.
Thế rồi một thời gian sau ông Thừa Hòa vì phải đi xa nên đã nhờ một người bạn Pháp tên là Bouilleaux (tên Việt Nam là Cố Long) tiếp tục lo hộ việc nuôi dưỡng và học hành của cậu bé Trương Vĩnh Ký.
Năm lên 11 tuổi (tức năm 1848), Trương Vĩnh Ký được Cố Long gởi đến học tại Pinhalu (Phnom Penh, Campuchia) được xây cất ở giữa một rừng thốt nốt hoang vu gần sông Mekong và cách Phnom Penh độ 6 dặm, dành cho cả vùng Đông Nam Á và Trung Hoa.
Lúc đó lớp học có tầm 25 học sinh trong độ tuổi từ 13-15 tuổi và Trương Vĩnh Ký thuộc vào diện nhỏ tuổi nhất. Tại đây, Trương Vĩnh Ký đã gặp gỡ, ăn ở chung với học sinh các nước Đông Nam Á như: Campuchia, Lào, Thái Lan, Myanmar, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Ciampois (Chăm)… Và với trí tuệ hơn người của Ký, chỉ một thời gian ngắn sau cậu thiếu niên 13 tuổi Ký đã giao tiếp cũng như viết thông thạo tất cả các ngôn ngữ kể trên từ các bạn cùng trường.
Bên cạnh việc nói chuyện với các bạn, Trương Vĩnh Ký còn học ngoại ngữ từ các sách và các tự điển có sẵn trong thư viện của nhà trường. Các nhà ngôn ngữ học đương thời nhận định rằng Trương Vĩnh Ký đã tự mình khám phá ra những quy luật ngữ pháp giống nhau, khác nhau của nhiều tiếng nước ngoài để từ đó ông học nhanh và dễ dàng hơn.
Vào ngày mãn khóa học ở chủng viện Pinhalu, cậu thiến niên Trương Vĩnh Ký được chọn là một học sinh xuất sắc, đỗ đầu lớp và được lựa chọn cùng hai học viên nữa để tiếp tục đi du học ở đảo Penang, Malaysia.
Năm lên 14 tuổi (tức năm 1851), Trương Vĩnh Ký tiếp tục được gởi vào trường ở Poulo Penang (là một hòn đảo nhỏ thuộc vùng Nam Dương của đất nước Malaysia, nơi mà người Hoa và thổ dân Malaysia sống bằng kỹ nghệ khai thác mỏ kẽm). Khi đến nơi này, Trương Vĩnh Ký rất ngạc nhiên khi thấy một vùng đảo ở vùng Đông Nam Á mà có nếp sinh hoạt cơ giới ồn ào, một sự phát triển lạ thường mà ông chưa từng thấy ở nước mình và Cao Miên.
Tượng Trương Vĩnh Ký đặt ở Bến Tre hiện nay
Trong suốt 7 năm trời theo học tại đây, Trương Vĩnh Ký đã học chuyên ngữ Latin và Hi Lạp. Ngoài ra, ông còn học nâng cao thêm các thứ tiếng khác như Nhật, Hi Lạp, Thái Lan, Pháp, Ý, Ấn Độ, Anh, Tây Ban Nha, Malaysia,…
Trong thời gian ở Penang, trí tuệ thông minh, đầu óc và tài năng của Trương Vĩnh Ký được phát huy một cách tột độ. Ông học một hiểu mười nhờ trí nhớ siêu phàm, cùng việc đọc nhanh hiểu nhiều những sách vở ở thư viện và giảng dạy của nhà trường.
Từ việc đọc rất nhiều sách Hán, Pháp, Anh, Hi Lạp, Tây Ban Nha... mà Trương Vĩnh Ký đã tiếp nhận được rất nhiều luồng tư tưởng và kiến thức khác nhau của người xưa cả Đông và Tây nhờ trí thông minh, khả năng ngôn ngữ và trí nhớ đặc biệt của chính mình.
Bên cạnh đó, trong suốt thời gian theo học tại Penang, ông còn tự học tiếng Nhật, Ấn bằng cách cắt các tờ báo cũ, rồi dùng phương pháp đối chiếu, diễn dịch mà khám phá ra các mẹo luật văn phạm.
J.Thomson - Nhà nhiếp ảnh người Anh viết quyển “Mười năm du lịch Trung Quốc và Đông Dương”, trong đó có đoạn: “Một hôm đến thăm Trương Vĩnh Ký, tôi thấy ông đang soạn sách Phân tích so sánh các ngôn ngữ chủ yếu trên thế giới, tác phẩm này ông bỏ ra nhiều năm làm việc cần cù. Chung quanh ông đầy những quyển sách quý và hiếm mà ông tìm kiếm được ở châu Âu, châu Á…”.
Học ngoại ngữ trên hết là sự lao động miệt mài, công phu
Với trí thông minh, sự sắc sảo thiên bẩm và chí phấn đấu cao, lại chịu khó tìm tòi, tự học trong một ngôi trường đa sắc tộc, nên Trương Vĩnh Ký đã thông thạo các ngoại ngữ phổ biến ở khu vực lúc bấy giờ.
Như vậy, từ tấm gương sáng Trương Vĩnh Ký, chúng ta rút ra rằng việc học ngoại ngữ được thực hiện một cách khoa học; có phân tích, đối chiếu giữa các thứ tiếng. Và trên hết nó là sự lao động miệt mài, công phu, chứ không chỉ đơn thuần là dựa vào trí thông minh như nhiều người vẫn nghĩ.
Chúng ta càng khâm phục Trương Vĩnh Ký hơn khi biết rằng việc học tập của ông vô cùng vất vả, có nhiều ngoại ngữ ông học từ chính những người bạn học của mình, đúng như ông bà ta thường nói: “Học thầy không tày học bạn”.
Một trong những sách dạy ngoại ngữ của nhà bác học Trương Vĩnh Ký - Ảnh tư liệu
Trương Vĩnh Ký thông thạo và nắm vững quy luật học các ngoại ngữ của các quốc gia trong khu vực và đã truyền kinh nghiệm của mình qua việc xuất bản sách. Vào cuối thập niên 1880, ông đã xuất bản sách dạy tiếng Thái Lan, Campuchia.
Đến năm 1892, ông soạn được ba bộ sách dạy tiếng Miến Điện (tức Myanmar ngày nay): Cours de langue birmane, Vocabulaire français-birman, Guide de la conversation birman[e]-français. Từ năm 1893, ông tiếp tục xuất bản sách dạy tiếng Lào, Malay, Tamoule (Tamil?), Ciampois (Chàm).
Émile Littré, nhà văn Pháp, năm 1862 đã viết: “Trên trái đất này rất khó tìm ra người thứ hai say mê ngôn ngữ như Trương Vĩnh Ký. Gặp người Anh, Trương Vĩnh Ký nói bằng tiếng Anh nhuần nhị như người Luân Đôn. Tiếp xúc với người Ý Đại Lợi, người Y Pha Nho, người Bồ Đào Nha... hay người Nhựt Bổn, Mã Lai, Xiêm... Trương Vĩnh Ký đều nói đúng theo âm luật của kinh đô nước đó... Sự hiểu biết tới 26 ngoại ngữ của P. Trương Vĩnh Ký đủ để loài người tôn vinh anh như một nhà bác ngữ học vào bậc nhất của thời nay”.
Năm 1874, Trương Vĩnh Ký đã được thế giới bình chọn là “nhà bác học về ngôn ngữ”, nằm trong danh sách 18 nhà bác học thế giới của thế kỷ XIX, được ghi tên vào các danh nhân thế giới trong Tự điển Larousse.
Các nhận định về Trương Vĩnh Ký
Học giả Pháp Jean Bouchot cuối thế kỷ 19 khẳng định Trương Vĩnh Ký là "một nhà bác học duy nhất ở Đông Dương và cả với nước Trung Hoa hiện đại… Người dân hoàn toàn Nam Kỳ ấy sánh kịp với các nhà thông thái xứng đáng nhất của Âu châu trong đủ ngành khoa học...".
Lễ khánh thành tượng Trương Vĩnh Ký thời Pháp thuộc ở một góc Công viên Thống nhất
Nhà văn Sơn Nam: "Ông Trương Vĩnh Ký từ khi đỗ đạt cho đến khi mất vẫn tỏ ra thân Pháp. Tuy nhiên, người ở miền Nam không bao giờ khinh rẻ ông. Ông không gia nhập Pháp tịch...Ông này khi sanh tiền tuy là nhà nước tin cậy mặc dầu chớ chẳng hề ỷ thế mà hại quê hương, chỉ vẽ cho các quan Lang sa biết phong tục lễ nghĩa của con nhà An Nam. Thiệt là quan thầy của cả và Nam Kỳ...".
Giáo sư Thanh Lãng: "Trương Vĩnh Ký không đạo mạo, không đài các, không cao kỳ; ông trai trẻ hơn, ông mới hơn...Và nhờ ông, câu văn Việt được giải phóng khỏi những xiềng xích chữ Hán. Chủ trương của ông chính là "cách nói tiếng An Nam ròng" và viết "trơn tuột như lời nói". Nếu đem phân tích theo ngữ pháp thì thấy lôi thôi, nhưng so với văn xuôi khác ra đời sau ông 20, 30 năm, văn ông vẫn còn hay hơn, mạch lạc khúc chiết hơn”.
Tượng Petrus Trương Vĩnh Ký trước năm 1975 ở Công viên thống nhất hiện nay - Ảnh tư liệu
Nhà nghiên cứu Lê Thanh: "Từ nhỏ được giáo dục theo phương pháp Âu Tây, khi trưởng thành theo giúp việc người Pháp, thế mà bằng hữu viết thư giục ông, ông không nghe, vẫn khăng khăng từ chối để suốt đời được giữ bộ quần áo Việt Nam và suốt đời là một người Việt Nam thuần túy”.
BÌNH AN (Tin8)