Tại sao Đông y trị ‘gốc’ Tây y trị ‘ngọn’? Hiểu được điều này bạn sẽ không còn trong vòng xoáy bệnh tật nữa! (P.2)

Ngày đăng: 18/01/2018
3,740 Read
267 Share
Phần 1 chúng ta đã biết Đông y thăm khám và trị bệnh là tổng quát, toàn phương diện chứ không chỉ trị một chứng, một bệnh. Tinh túy của Đông y là xem mạch biết trước bệnh tật để phòng theo quan điểm “phòng bệnh hơn chữa bệnh”. Trong phần 2 này chúng ta sẽ có cái nhìn tổng quan hơn về cách dùng thuốc để hiểu cái gốc điều trị bệnh trong Đông y.

Phần 1 chúng ta đã biết Đông y thăm khám và trị bệnh là tổng quát, toàn phương diện chứ không chỉ trị một chứng, một bệnh. Tinh túy của Đông y là xem mạch biết trước bệnh tật để phòng theo quan điểm “phòng bệnh hơn chữa bệnh”. Trong phần 2 này chúng ta sẽ có cái nhìn tổng quan hơn về cách dùng thuốc để hiểu cái gốc điều trị bệnh trong Đông y.

Phần 1: Bàn về cái nhìn tổng trạng của Đông y đối với cơ thể

Phần 2: Lề lối dùng thuốc, đường hướng trị bệnh của Đông y

Phong thái bào chế, phối hợp thuốc men của Đông y cũng là phong thái “vô nhi vô vi”: Trị bệnh mà như không trị bệnh vậy. Khi đau bệnh sắc thuốc uống cũng chỉ như lúc khỏe pha trà nhấm nháp. Xương thú có thể hầm để nấu cháo thì cũng có thể cô để chế cao. Thành ra ngày thường ta dùng thực vật, động vật trong ăn uống, thì lúc ốm đau, ta cũng dùng thực vật, động vật làm dược liệu.

Cho nên Đông y rất thiện dụng lối dùng toàn bộ vị thuốc mà rất xem nhẹ các phép trích khai (chiết xuất thảo dược trong Tây y) bởi hai lý do: Thứ nhất, vì hợp lẽ tự nhiên, đúng quy tắc “vi nhi vô vi; thứ hai, vì thích nghi với nhãn quan tổng hợp, toàn diện, bởi “Nhất vật bất cụ, tắc sinh giả vô do đắc sinh” (một vật không đầy đủ thì sự sống của nó không có lý do để sống) như Quách Tượng đã xác định.

Tim lợn thường được dùng trong Đông y để trị các bệnh về tim mạch. (Ảnh: emvaobep.com)

Hơn nữa, về nguyên tắc, phép dùng thuốc của Đông y là thông qua quy luật đồng khí tương cầu, bởi trong vũ trụ, vạn vật vốn đồng nhất thể. Vì vậy, từ đời Đường, cuốn “Thiên Kim Phương” đã khuyên dùng gan loài vật để chữa chứng bần huyết, dùng tuyến giáp loài dê để chữa chứng bướu cổ, dùng tim và thận lợn để trị các bệnh về tim và thận. Những ví dụ tương tự không thiếu trong kho tàng dược liệu cổ truyền: Trứng gà tươi và lộn, thận bò và dê, nhau sản phụ, não bộ và tủy sống súc vật…

Trên một khía cạnh khác, tính cách tương ứng giữa mọi vật áp dụng vào dược lý cũng thể hiện qua hình thức phân loại dược vật tùy theo thành phần, bộ phận nặng nhẹ: Phần nhiều hoa lá vốn nhẹ đều có tác dụng thăng phù (đi lên) như Tân di, Hà diệp, Thăng ma; phần nhiều quả hột, rễ củ, vốn nặng, đều có công năng trầm giáng, đi xuống như Tô tử, Chỉ thực, Thục địa…

Do nơi quan niệm phép trị lớn (đại chế) thì không trị bằng cách chia lìa một cách rời rạc vì các chức năng và bộ phận là liên quan chặt chẽ, là nhất thể, không phân biệt thân một nơi, tâm một ngã. Vì vậy phải làm cho tâm thể bệnh hoạn trở về với Thiên chân – thân tâm làm một, tức là với cái lẽ sống Một, điều lý sao cho quân bình, đi đến cái thế “đắc nhất” (Đạo Đức Kinh, Chương 39), không tách riêng tâm khỏi vật. Cho nên phương pháp trị liệu của Đông y, nhìn chung là dựa vào chiến lược “Đại chế đứt cáp” (Đạo Đức Kinh):Phép trị lớn, không chia.

Trong một thang thuốc cũng vậy, có vị bổ thì phải kèm vị tả, cạnh thuốc bốc lên quá phải kèm thuốc hạ xuống phần nào. Do đó, lối dùng thuốc của Đông y thường rất mực từ tốn, khoan thai – cả trong lúc cấp cứu, ít khi dùng các loại thuốc công tả mãnh liệt. Bởi giống như kẻ sĩ bậc cao không bạo động vũ phu “Thiện vi chỉ giả bất vũ (Đạo Đức Kinh, Chương 63).

Bậc lương y cũng không bao giờ sử dụng những phương pháp gây hấn, mạnh bạo để đối phó với ốm đau, mà chỉ huy động những liệu pháp nhẹ nhàng, trầm tĩnh. Ai uống thuốc bắc cũng thấy rõ điều này: Thuốc bắc ít công phạt, thuốc bắc “không nóng”, cũng rất lành tính. Nhưng tác dụng không hề vì thế mà giảm thiểu; trái lại, khả năng duy trì lâu dài trong một thời gian là một đặc tính của dược liệu cổ truyền Đông phương.

Bởi giống như bậc danh tướng Gia Cát Lượng, không dùng sức mạnh để thắng đối phương, mà chỉ tìm cách thắng một cách khéo léo dựa vào thuật “bất tranh nhi thiện thắng” (không dành mà khéo thắng). Mà Đông y không phải là không biết đến các vị thuốc có tính năng mãnh liệt, hùng hậu, nguy hiểm, độc hại. Trái lại, phụ tử – vị thuốc thuộc bảng A của Tây y, là một trong bốn vị thuốc quý của phương Đông (Sâm, Nhung, Quế, Phụ).

Phụ tử, vị thuốc độc bảng A trong Tây y nhưng là vị thuốc trong tứ quý của Đông y – Sâm, nhung, quế, phụ. (Ảnh: duoctuelinh.vn)

Về chiến thuật, người thầy thuốc vận dụng dược liệu, kim châm cũng không ngoài lẽ Đạo. Cho nên nếu: “Thiên chi Đạo tổn hữu dư nhi bổ bất túc” (Đạo của Trời bớt chỗ thừa để bù chỗ thiếu – Lão Tử) thì:

  • Người y sĩ châm kim vào huyệt là để rút bớt khí thừa vượng ở một cơ quan, địa khu, kinh lạc nào đấy hầu hướng đến một cơ quan, địa khu, kinh lạc khác đang thiếu khí…
  • Người y sĩ phục dược là nhắm mượn sức thuốc, chẳng hạn tính thuốc dẫn hỏa quy nguyên, khi “nguyên” đang thiếu hỏa, bởi hỏa đã phân tán ra ngoại vi gần hết…
  • Trong cả hai trường hợp, dùng thuốc hay dùng kim, bậc lương y đều có thể tùy theo từng cơ quan có chức năng tăng hoạt hay suy nhược để mà linh động bổ mẫu, tả mẫu hay bổ tử, tả tử, châm bổ, châm tả theo nguyên lý ngũ hành sinh khắc, không ngoài mục đích mang chỗ thừa đắp vào chỗ thiếu.

Nếu theo lẽ Đạo, “táo thắng hàn, tịnh thắng nhiệt” (Lão Tử), thì chiến thuật dùng thuốc cũng chỉ là lợi dụng sự thiên lệch của tính thuốc, vị thuốc để sửa chữa sự thiên lệch của âm dương, lấy các vị thuốc ôn nhiệt (ấm, nóng) chẳng hạn để...

3,740 Read
267 Share
(373)
:
TIN BÀI NÓNG!!!
Đăng nhập
Quên mật khẩu
Đăng ký
Về đầu trang