Tuyên phi Đặng Thị Huệ
Đặng Thị Huệ được nhận định là mỹ nhân dùng nhan sắc khiến một triều đại trở nên chao đảo. Cô sinh ra ở làng Tràn Hương, huyện Phù Đổng, trấn Kinh Bắc, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
Dù xuất thân nghèo khó song nhờ có nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành mà Đặng Thị Huệ được đưa vào phủ Chúa để hầu hạ nhà vua. Trong một lần bưng hoa quả đến phục vụ chúa Trịnh Sâm, cô ngay lập tức lọt vào mắt xanh của người, được phong là Tuyên Phi.
Chúa Trịnh Sâm nổi tiếng là chúa giỏi, giỏi thơ hay chữ. Thế nhưng chỉ vì mê đắm nhan sắc của Đặng Thị Huệ mà ông khiến nền chính trị trở nên suy đồi, quan lại trong triều lắm lời than vãn. Nếu trước khi gặp Đặng Thị Huệ, chúa Trịnh Sảng sáng suốt bao nhiêu thì sau đó ông u mê bấy nhiêu. Thời gian này em trai của Tuyên Phi cậy thế chị mình được sủng ái mà làm nhiều điều bại hoại, chèn ép người khác, uống rượu say đánh người. Thế nhưng điều đáng nói là Trịnh Sảng biết vậy nhưng vẫn tha thứ, thậm chí sau này ông còn gả con gái cho y.
Chưa hết, chúa Trịnh Sảng còn dùng tiền quốc gia để bày ra nhiều thứ đem đến niềm vui thú cho Tuyên Phi. Chẳng hạn như lấy gấm lụa trong kho làm đèn lồng dịp trung thu. Trong khi đó gấm thượng hạng có giá tới vài chục lạng vàng. Hay chúa cho dựng hàng trăm cây phù dung ven hồ Long Trì để treo đèn, làm Tuyên Phi cảm thấy hài lòng.
Mức độ si mê người đẹp của chúa Trịnh Sảng đi đến cao trào khi ông nghe lời Thị Huệ phế bỏ thế tử Trịnh Tông (con trưởng) để lập con của Tuyên Phi là Trịnh Cán làm thế tử khi vừa lên 4 tuổi. Hành động này gây nên chiến tranh giữa hai phe Trịnh Tông và Trịnh Cán. Sau khi Trịnh Sâm qua đời khoảng 1 tháng, phe kiêu binh đất thang mộc diệt Cán, phù Tông lên ngôi Chúa. Trịnh Cán bị giáng xuống làm Cung quốc công, rồi hơn tháng sau thì bị bệnh qua đời.
Trong sử sách Hoàng Lê nhất thống chí có đoạn chép như sau: “Khi chúa nhỏ bị bỏ, Thái phi (mẹ của Trịnh Tông) liền sai người bắt Tuyên phi hặc tội, rồi buộc bà phải lạy tạ. Tuyên phi không chịu lạy, Thái phi bèn sai hai thị nữ đứng kèm hai bên, níu tóc Tuyên phi rập đầu xuống đất, nhưng bà vẫn nhất định không chịu lạy, mà cũng không nói nửa lời. Thái phi giận quá, đánh đập một hồi, nhổ nước bọt vào đầu vào mặt, rồi đem giam vào nhà Hộ Tăng ở vườn sau. Tại đây, Đặng Thị Huệ bị làm tình làm tội cực kỳ khổ sở. Một bữa, bà trốn ra khỏi cửa Tuyên Vũ, chạy đến bến đò phố Khách thì bị quân lính đuổi kịp…
Sau một thời gian giam giữ ngặt, Thị Huệ được cho làm cung tần nội thị, vào Thanh Hóa hầu hạ lăng tẩm chúa Trịnh Sâm. Ở đây, bà ngày đêm gào khóc xin được chết theo chồng. Đến ngày giỗ của chúa Trịnh Sâm, Tuyên phi uống thuốc độc mà chết, được táng cách Vọng lăng (lăng Trịnh Sâm) một dặm”.
Tống Thị
Tống Thị là con gái đầu của Tống Phước Thông, vợ của Nguyễn Phúc Anh (hoàng tử Kỳ), trấn thủ Quảng Nam, con dâu chúa Sãi. Tống Thị được sử sách ghi chép là có nhan sắc kiều diễm, vô cùng trang nhã, toát lên khí chất yểu điệu thục nữ. Nhiều người còn nói, trông thấy Tống Thị như nhìn thấy giáng tiên vừa đội trăng sao, vừa rẽ khói vén mây xuống hạ giới.
Tuy nhiên nhan sắc kiều diễm ấy lại bao bọc cho một tâm hồn xảo trá. Nàng Tống Thị là một người vô cùng tham vọng và không từ thủ đoạn. Để bước đến đỉnh cao danh vọng và quyền lực, nàng đã bất chấp luân thường đạo lý, câu kết với gian thương, ra sức bóc lột dân lành. Mục đích của Tống Thị nhằm tạo cho mình gia sản “nhất nhì ở Đàng Trong, giàu chỉ kém Chúa”.
Không những thế, nàng còn có biệt tài làm lung lạc đấng quân vương. Nhiều sử gia khi nói về bà phải thốt lên: “Gái đẹp quả có mãnh lực vô biên”, ví nàng như là Đát Kỷ của Việt Nam.
Sau khi chồng Tống Thị là Nguyễn Phúc Anh qua đời (vì tội làm phản), cha của nàng là Phước Thông đã dẫn gia quyến đi trốn. Lúc này chỉ còn Tống Thị ở lại đối diện với tội trạng. Bà đã dùng chuỗi vòng ngọc liên châu giống như một “ngải yêu” để chinh phục chúa thượng. Trong năm 1639, Tống Thị dâng Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan thứ bùa đó, chúa cầm lên ngửi thấy mùi hương thơm ngát, lòng dạ bắt đầu phiêu phiêu.
Thêm vào đó, Tống Thị còn dùng tài ăn nói hơn người của mình để chinh phục chúa Thượng. Khi vào diện kiến chúa, mỹ nhân đã sụp lạy dưới thềm, thưa trình về tình cảnh goá bụa thảm thiết, khiến chúa rủ lòng đã cho phép người đẹp được tự do vào ra vương phủ. Dần dần chúa Thượng đem lòng say mê bà.
Kể từ khi đam mê sắc dục với Tống Thị, chúa bỗng sinh ra nóng nảy, hiếu sát, hoang dâm vô độ, bỏ bê việc triều chính. Quần thần không còn nhận ra một vị chúa nhân hậu, khiêm nhã trước đó. Chúa Thượng còn cho xây một lâu đài nguy nga tráng lệ để cùng Tống Thị hưởng thụ bên nhau khi về già.
Để xây dựng được lâu đài, trăm họ đã phải nhọc công lấy đá và gỗ quý, huy động lực lượng xây giỏi để dựng nên lâu đài. Vì ý định này của chúa mà người dân đã đói kém lại thêm sưu thuế nặng nề càng khổ ải. Cho đến khi viên Nội tán họ Phạm liều thân vào phủ chúa tâu bày vụ việc dâm loạn, coi nhẹ luân thường đạo lý của chúa Thượng với Tống Thị, gieo nỗi thống khổ cho nhân dân giữa lúc thiên tai hạn hán đang lan tràn… rồi tuốt gươm sẵn sàng tuẫn tiết, chúa Thượng mới “tỉnh ngộ”, ra lệnh bãi bỏ việc xây cất lâu đài và dần xa lánh Tống Thị.
Bị thất sủng, Tống Thị suy tính ngày đêm để tìm kế trả thù. Nàng đã viết một mật thư kèm theo xâu chuỗi trăm hoa, nhờ người dâng lên tận tay chúa Trịnh Tráng đàng Ngoài. Nội dung bức thư nhằm kích động bạo loạn, nếu cuộc tiến quân đánh Thuận Hóa thành công, bà nguyện về Đàng ngoài hầu hạ Chúa. Nhận được bức thư, Trịnh Tráng vừa ngửi mùi hương của chuỗi hoa đã bần thần xao xuyến, nhìn nét chữ lại thêm mơ tưởng đến mỹ nhân nên gấp rút tổ chức cuộc Nam phạt để chiều lòng Tống Thị.
Nào ngờ quân Trịnh Tráng thua lớn, Tống Thị bèn chuyển hướng sang Nguyễn Phúc Trung – em ruột chúa Thượng. Tống Thị tiếp tục sử dụng chuỗi hoa ma quái khiến Nguyễn Phúc Trung vừa cầm vòng hoa đã bồi hồi ngây ngất. Sau đó, Tống Thị đã xúi Trung đứng ra làm phản, bắt mối với Đàng ngoài. Nhưng vụ làm phản bị bại lộ, chúa Trung chết, Tống Thị bị chém và bêu đầu giữa chợ.
Linh Từ quốc mẫu Trần Thị Dung
Trần Thị Dung còn có tên khác là Trần Thị Ngừ, con gái Trần Lý, em gái kế của Trần Thừa và Trần Tự Khánh, là cô ruột của vua Trần Thái Tông. Cuộc đời bà gắn liền với việc chuyển giao quyền lực từ thời Lý sang thời Trần. Bà vừa là mối họa của nhà Trần nhưng cũng là người có nhiều công lao to lớn.
Cũng sở hữu nhan sắc hơn người nên khi còn trẻ Trần Thị Dung đã được nhiều công tử nhà giàu đem lòng yêu thích. Tuy nhiên bà vẫn không ưng ai. Trong năm Kỷ Tỵ 1209 Quách Bốc nổi loạn, chiếm giữ được kinh thành Thăng Long. Cả Vua Lý Cao Tông và Hoàng Thái tử Lý Long Sảm đều phải chạy loạn. Cao Tông và Hoàng hậu chạy lên Yên Bái, còn Thái Tử Sảm chạy xuống Thái Bình. Tại đây, Thái tử Sảm quen thân với gia đình Trần Lý rồi đem lòng yêu thương con gái ông là Trần Thị Dung và sau đó cưới làm vợ. Sau khi Thái tử lên ngôi năm 16 tuổi (vua Lý Huệ Tông), nhà vua sai đón Trần Thị Dung về triều.
Kể từ vào cung, cuộc sống của Trần Thị Dung gặp nhiều sóng gió vì bà không được lòng Thái hậu Đàm Thị. Nhiều lần Thái hậu đòi phế Trần Thị Dung song không thành vì vua Huệ Tông ra sức bảo vệ. Đuổi đi không thành, Thái hậu còn sai người bỏ độc dược vào thức ăn của Thị Dung song may mắn bà không gặp bất trắc. Sau này, Thị Dung còn sinh cho Hoàng thượng hai công chúa sinh đẹp là Thuận Thiên công chúa và Chiêu Thánh công chúa (vua Lý Chiêu Hoàng sau này).
Với tài năng và sự khéo léo của mình, Thị Dung đóng góp khá nhiều công lao trong việc triều chính. Nhờ sự yêu thương của vua Huệ Tông, Thị Dung ngày càng nắm nhiều quyền lực trong triều chính. Lâu dần mọi thứ dần rơi vào họ ngoại – “nhà Trần”.
Nhờ sự yêu mến của vua Huệ Tông và tài khéo léo của Trần Thị Dung, quyền lực triều chính dần rơi vào tay họ ngoại – “nhà Trần”. Lúc này con cháu họ Trần cũng thừa cơ hội lọt vào triều đình cung cấm, nắm nhiều vai trò trọng yếu. Trần Thị Dung tranh thủ thời cơ thuyết phục hoàng thân quốc thích và quan quân nhà Lý tin vào tướng lĩnh họ Trần. Sau này khi vua Huệ Tông mắc bệnh điên, vai trò của Hoàng hậu Trần Thị Dung trong việc chuyển giao quyền lực càng rõ ràng.
Bà liên kết cùng Trần Thủ Độ dựng nên một kịch bản lật đổ triều Lý với các bước tiến hành khá hoàn hảo:
- Bước 1, ép vua Huệ Tông phải từ bỏ ngôi báu, lập Chiêu Thánh công chúa làm Thái tử rồi nhường ngôi cho con (năm 1224).
- Bước 2, đưa Trần Cảnh (gọi Dung là cô ruột, gọi Độ là chú họ) vào cung giữ chức Chánh thủ, chuyên hầu hạ Lý Chiêu Hoàng (cũng trong năm 1224).
- Bước 3, ép Lý Chiêu Hoàng lấy Trần Cảnh rồi nhường ngôi cho chồng, còn mình làm Hoàng hậu (năm 1225).
- Bước 4, ép Lý Huệ Tông phải tự vẫn (năm 1226). Sau khi vua Huệ Tông qua đời, bà bị giáng xuống làm Thiên Cực công chúa và lấy Trần Thủ Độ. Nhờ kế hoạch này mà cuộc “đoạt ngôi” trở nên hiếm có trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam, không xảy ra cảnh huynh đệ tương tàn.
Khi Trần Thái Tông và Chiêu Thánh hoàng hậu (Lý Chiêu Hoàng) chung sống với nhau 12 năm mà không có con, Trần Thị Dung và Trần Thủ Độ lại ép vua phải phế ngôi Hoàng hậu của Chiêu Thánh (năm 1237) rồi lấy Thuận Thiên (chị ruột của Chiêu Thánh) làm vợ và lập làm Hoàng hậu, thế chỗ của em gái (Thuận Thiên là con gái đầu lòng của Lý Huệ Tông và Trần Thị Dung, lúc đó đã có chồng và có thai 3 tháng. Chồng của Thuận Thiên là Trần Liễu, anh ruột của Trần Cảnh, tức Trần Thái Tông).
Khi nói về sự kiện nhà Trần thay thế nhà Lý, người ta chỉ nhắc tới vai trò của Trần Thủ Độ, hầu như không ai nhắc tới vai trò của Hoàng hậu Trần Thị Dung. Song, sự thật lịch sử đã chứng minh vai trò của Trần Thị Dung không nhỏ, bởi vì các bước nêu trên trong kịch bản lật đổ nhà Lý nếu không có sự đồng tình của Trần Thị Dung thì Trần Thủ Độ không thể thực hiện được trót lọt và nhanh chóng đến như vậy. Đúng như nhà sử học Ngô Sỹ Liên đã nhận xét: “Trời sinh ra Linh Từ là cốt để mở nghiệp nhà Trần”.
A CHÂU (Tin8, Ảnh: Internet)