Ẩn ý của Thi Nại Am đằng sau hai chữ Thủy Hử, hậu thế không mấy ai hiểu thấu!

Ngày đăng: 28/03/2018
3,932 Read
279 Share
Hàng thế kỷ qua đi, hậu thế kỳ thực vẫn chưa có mấy người thực sự hiểu hết ẩn ý của Thi Nại Am sau tên gọi "Thủy Hử truyện".

Tác giả "Tam Quốc diễn nghĩa" là "cha đẻ" của tên gọi Thủy Hử truyện?

Nhắc đến tứ đại danh tác của văn học Trung Quốc, nhiều người sẽ thuộc làu 4 tên gọi quen thuộc của các tác phẩm, bao gồm "Hồng Lâu Mộng", "Tây Du ký", "Thủy Hử truyện" và "Tam Quốc diễn nghĩa".

Trong số này, "Tam Quốc diễn nghĩa" và "Tây Du ký" đều có tiêu đề rất dễ hiểu, nội dung và tên sách cũng có nhiều điểm liên quan và bổ trợ cho nhau.

Tên gọi của tác phẩm "Hồng lâu mộng" tuy có chút khó giải thích do đã bị đời sau thay đổi để xuất bản, in ấn, nhưng nếu xét tới tên gọi cũ là "Thạch đầu ký" do đích thân cha đẻ tác phẩm là Tào Tuyết Cần đặt bút thì hậu thế lại có thể hiểu được phần nào.

Bởi "Thạch đầu ký" có thể lý giải là chi tiết liên quan tới thân thể của Giả Bảo Ngọc - cậu ấm nhà họ Giả sinh ra với hòn ngọc ngậm trong miệng được cho là hóa thân của hòn đá có linh tính còn xót lại từ thời Nữ Oa "đội đá vá trời".

Thế nhưng, so với ba tác phẩm nằm trong "tứ đại danh tác", "Thủy Hử truyện" lại là bộ tiểu thuyết sở hữu tên gọi khó hiểu nhất.

Bởi lẽ, xuyên suốt câu chuyện kể về cuộc đời của 108 vị anh hùng Lương Sơn, 2 chữ "Thủy Hử" trong bản nguyên tác bằng tiếng Trung thậm chí chẳng xuất hiện lấy 1 lần.

Cho nên, mặc dù "Thủy Hử truyện" vô cùng nổi tiếng, nhưng ý nghĩa của hai chữ "Thủy Hử" thì lại không hề dễ hiểu.

Những người biên dịch cuốn tiểu thuyết lưu danh kim cổ ấy thành sách ngoại văn cũng bởi vậy mà thường xuyên gặp khó khăn trong việc giải nghĩa và lựa chọn tên nước ngoài cho tác phẩm.

Ẩn ý của Thi Nại Am đằng sau hai chữ Thủy Hử, hậu thế không mấy ai hiểu thấu! - Ảnh 1.

Tên gọi của "Thủy Hử truyện" từng được dịch thành nhiều tiêu đề khác nhau theo tiếng nước ngoài. (Hình minh họa).

Điều này khiến hậu thế không khỏi thắc mắc rằng, tại sao Thi Nại Am không lấy tên tác phẩm để đời của mình là "Thủy Bạc Lương Sơn" hay "Lương Sơn truyện" cho dễ hiểu? Hai chữ "Thủy Hử" trong tên tác phẩm xuất phát từ đâu và có ý nghĩa gì?

Ngày nay, hậu thế vẫn thường truyền tai nhau giai thoại về lần đổi tên duy nhất của "Thủy Hử truyện".

Tương truyền rằng, năm xưa Thi Nại Am vốn định đặt tên tác phẩm của mình là "Khách truyện giang hồ". Nhưng chính bản thân ông cũng cảm thấy cái tên này không diễn tả đủ hàm ý mà ông mong muốn truyền tải.

Đúng lúc đó, học trò của Thi Nại Am là La Quán Trung đã đề nghị với thầy mình rằng:

"Thưa thầy, con cho rằng nên đổi tên thành Thủy Hử truyện".

Thi Nại Am nghe xong liền cảm thấy thích thú với cái tên súc tích nhưng giàu ý nghĩa này, gật đầu và chắp bút viết ba chữ "Thủy Hử truyện" làm tiêu đề.

Cho tới ngày nay, việc La Quán Trung có thực sự là học trò của Thi Nại Am hay không vẫn còn là vấn đề gây nhiều tranh cãi. Nhưng giai thoại về việc tác giả của "Tam Quốc diễn nghĩa" là người nghĩ ra cái tên "Thủy Hử truyện" vẫn được hậu thế kể cho nhau nghe trong những lúc trà dư tửu hậu.

"Thủy Hử" - một cái tên, nhiều lớp nghĩa!

Về ý nghĩa của tên gọi "Thủy Hử truyện", người đời sau chủ yếu lý giải theo hai lớp nghĩa sau.

Thứ nhất, hai chữ "Thủy Hử" có nghĩa là "bến nước". Đặt tên là "Thủy Hử truyện" để khắc ghi về nơi các vị anh hùng đã có dịp tương ngộ với nhau rồi mới lên Lương Sơn tụ nghĩa. Cách lý giải đơn giản và sát nghĩa với tên truyện này nhận được sự tán thành của phần đông độc giả.

Tuy nhiên, các chuyên gia về văn học, lịch sử lại cho rằng, cái tên "Thủy Hử truyện" là đại diện tiêu biểu cho thủ pháp văn học quen thuộc của người Trung Quốc tên là "dụng điển".

Theo đó, "dụng điển" là một hình thức trích dùng các câu chuyện cổ hoặc một số câu chữ trong điển tích xưa, từ đó biểu đạt nội dung và tư tưởng có liên quan bằng những mỹ từ phong phú mà súc tích.

Cũng theo lý giải của giới chuyên gia, "Thủy Hử" là hai chữ bắt nguồn từ bài "Miên" (Đại Nhã) thuộc Kinh Thi, kể về cuộc thiên cư lần thứ hai của tộc Chu.  Trong đó có câu:

"Cổ Công Đản Phủ, lai hướng tẩu mã, suất tây thủy hử, chí vu kỳ hạ".

Những câu chữ này bắt nguồn từ câu chuyện kể về tổ phụ của dòng họ Chu – tức Cổ Công Đản Phụ hay còn gọi là Chu Thái vương. Tương truyền rằng, Cổ Công Đản Phụ sinh hạ vào lúc nhà Thương đang ở thời kỳ thịnh trị.

Vào thời bấy giờ, bộ tộc Chu đang sống tại đất Mân – một mảnh đất nơi biên thùy cằn cỗi thường xuyên chịu sự quấy phá của các thế lực dũng mãnh phía bên ngoài. Suốt hàng chục năm trời, họ đã phải chịu cảnh thiếu cơm ăn áo mặc, ngày ngày sống trong nguy hiểm.

Chỉ đến khi bộ tộc một vị lãnh tụ kiệt xuất là Chu Thái Vương ra đời, bộ tộc ấy mới lập được kỳ tích. Chu Thái Vương Cổ Công Đản Phụ là cháu đời thứ 16 của Hiên Viên Hoàng đế và là hậu duệ đời thứ 12 của Chu Tổ Hậu Tắc, cũng là một lãnh đạo xuất sắc của bộ tộc Chu.

Dưới sự suất lĩnh của Đản Phụ, bộ tộc Chu đã trải qua nhiều nguy hiểm mới có thể ly khai đất Mân, vượt qua sông Tất, sông Thư, núi Lương để tới định cư tại Kỳ Sơn (nay thuộc thành phố Bảo Kê, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc).

Vùng đất mới này chẳng những có đất đai phì nhiêu mà lại tránh khỏi sự quấy phá của các thế lực ngoại tộc khác.

Cứ như vậy, bộ tộc Chu ở Kỳ Sơn bắt đầu phát triển lớn...

3,932 Read
279 Share
(435)
:
TIN BÀI NÓNG!!!
Đăng nhập
Quên mật khẩu
Đăng ký
Về đầu trang