ảnh minh họa
TS. Nguyễn Thị Kim Dung (Viện Nghiên cứu Sư phạm – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội) giới thiệu chương trình đào tạo nghiệp vụ sư phạm của Nhật Bản, New Zealand; từ đó rút ra những bài học trong đào tạo giáo viên nói chung và đào tạo nghiệp vụ sư phạm ở Việt Nam nói riêng.
Mỗi nước và ngay trong cùng một nước, nội dung chương trình đào tạo giáo viên (ĐTGV) trình độ đại học có thể khác nhau về cấp độ, nhưng đều tập trung vào 4 mảng nội dung cơ bản: Các khóa học chung (đại cương); các khóa học chuyên ngành (môn cơ bản); các khóa học giáo dục; thực tập giảng dạy.
Theo TS. Nguyễn Thị Kim Dung, tổng số tín chỉ cho toàn bộ khóa học trong đào tạo giáo viên là 125; trong đó giáo dục đại cương 26 tín chỉ; giáo dục chuyên ngành 54 tín chỉ; môn học giáo dục tự chọn khác (phần lớn thuộc về khoa học giáo dục): 40 tín chỉ; thực tập sư phạm 5 tín chỉ.
Cụ thể những học phần liên quan đến giáo dục chuyên ngành bao gồm những nội dung liên quan đến chuyên môn, đến chương trình dạy học phổ thông và đến nghề dạy học.
Đối với các nội dung liên quan đến chương trình dạy học, sinh viên phải tham gia học đại cương tất cả các môn có trong chương trình dạy ở trường trung học.
Những nội dung liên quan đến nghề dạy học bao gồm 6 học phần: Ý nghĩa của nghề dạy học; các lý thuyết cơ bản về giáo dục; chương trình và phương pháp giảng dạy; hướng dẫn học sinh, tham vấn và tư vấn nghề; luyện tập, thực hành chung; thực tập sư phạm ở trường phổ thông.
Nội dung học phần “Ý nghĩa của nghề dạy học” thường bao gồm những phần về tầm quan trọng của nghề dạy học, vai trò của giáo viên, nội dung nhiệm vụ của người giáo viên (gồm cả đào tạo và duy trì, phát triển nghề,…) và giúp đỡ học sinh lựa chọn nghề nghiệp tương lai một cách phù hợp.
Học phần “Các lý thuyết cơ bản về giáo dục” bao gồm những nội dung: Các lý thuyết giáo dục, lịch sử giáo dục, triết lý giáo dục; sự phát triển thể chất, tinh thần của trẻ và quá trình học tập của trẻ (bao gồm cả sự phát triển thể chất, tinh thần của trẻ có nhu cầu học tập đặc biệt và quá trình học tập của đối tượng này); các vấn đề về xã hội, tổ chức và quản lý giáo dục;
Học phần “Chương trình và Phương pháp giảng dạy” bao gồm những nội dung: Ý nghĩa của chương trình dạy học và phương pháp tổ chức hoạt động dạy học; phương pháp giáo dục đạo đức; phương pháp giáo dục đặc biệt; phương pháp và kĩ thuật dạy học (bao gồm vấn đề sử dụng CNTT vào dạy học);
Học phần “Hướng dẫn học sinh, tham vấn và tư vấn nghề”, bao gồm: Các lí thuyết và phương pháp tham vấn giáo dục (gồm kiến thức cơ bản về hoạt động tham vấn); lý luận và phương pháp định hướng nghề (hướng nghiệp).
“Thực hành chung” bao gồm việc sinh viên lựa chọn phân tích, nghiên cứu một số vấn đề phổ biến đối với con người hoặc những vấn đề xã hội Nhật Bản đang phải đối mặt và thực tập sư phạm ở trường phổ thông.

TS. Nguyễn Thị Kim Dung cho biết: Bộ Giáo dục New Zealand không kiểm soát hoạt động đào tạo giáo viên (ĐTGV) thông qua chương trình. Vấn đề giám sát nội dung các chương trình này thuộc trách nhiệm của Hội đồng giáo viên (The Teacher’s Council) và cơ quan sở hữu văn bằng New Zealand (The New Zealand Qualifications Authority).
Những cơ sở đào tạo phải giải trình được nội dung chương trình đào tạo của mình có đảm bảo trang bị đầy đủ được cho học viên theo những thành phần sau hay không:
Kiến thức chuyên môn (bao gồm kiến thức về chương trình dạy học ở phổ thông hiện nay); thực hành chuyên môn; các mối quan hệ chuyên môn; năng lực lãnh đạo trong công tác chuyên môn.
Ví dụ chương trình ĐTGV trình độ đại học của trường Đại học Sư phạm Auckland. Tổng số tín chỉ quy định sinh viên phải hoàn thành tổng cộng 120 (12 modules) bao gồm: Phát triển chuyên môn (2 modules); bồi dưỡng chuyên môn (3 modules); thực tập sư phạm (2 modules).
Ngoài ra, sinh viên cần hoàn thành ít nhất 50 tín chỉ trong các module còn lại của chương trình đào tạo...